Cạnh tranh giữa đại việt và champa

Sự xuất hiện của chính thể Đại Việt độc lập vào thế kỷ thứ 10 đã tạo tiền đề cho sự cạnh tranh gay gắt với nước láng giềng phía nam, vương quốc Champa bị chia cắt. Khi Đại Việt phát triển thành một quốc gia lúa nước thịnh vượng pha trộn truyền thống Trung Quốc và Đông Nam Á, nó ngày càng thèm muốn các lãnh thổ và tuyến đường thương mại do chính thể Champa yếu hơn kiểm soát.

Theo các tài liệu, Đại Việt có nguồn gốc từ vùng đồng bằng sông Hồng phía bắc Việt Nam sau khi giành được độc lập khỏi sự cai trị của Trung Quốc trong nhiều thế kỷ. Nền kinh tế của nó phát triển mạnh mẽ dưới thời các vị vua đầu tiên có tầm nhìn như Lý Thái Tổ (ở ngôi 1009-1029), người đã thống nhất vương quốc, và Lý Thái Tông (ở ngôi 1028-1054), người đã thi hành các luật lệ, đánh bại các cuộc xâm lược của nhà Tống và phát động các cuộc tấn công chống lại Chămpa. Như các tài liệu mô tả, Lý Thái Tông “đích thân dẫn đầu một cuộc viễn chinh hải quân chống lại người Chăm” vào năm 1044, được biện minh bằng tuyên bố rằng ‘các nhà cai trị Chăm đã không thừa nhận đúng đắn ‘đức hạnh’ của đế quốc Việt Nam.

Ngược lại với việc củng cố nhà nước Đại Việt, Champa vẫn bị chia cắt thành các mạng lưới thung lũng sông thiếu sự kiểm soát của trung ương. Các tài liệu nói rằng Champa ‘chưa bao giờ là một vương quốc thống nhất’ mà là một ‘tập hợp các cảng thương mại và… vùng nội địa lân cận của chúng.’ Sự cai trị lỏng lẻo của nó có nghĩa là Champa phải dùng đến ‘các cuộc thám hiểm quân sự định kỳ để cướp bóc’ nhằm tài trợ cho các mạng lưới ưu tú của mình. Nhưng ‘nền kinh tế cướp bóc’ này và ‘những kẻ cướp biển bán độc lập’ đã khiến Champa dễ bị tổn thương.

Đại Việt đã khai thác lỗ hổng này trong nỗ lực bành trướng của mình để tìm kiếm những vùng đất mới và tiếp cận các mạng lưới thương mại sinh lời. Ví dụ, cuộc tập kích hải quân năm 1044 kể trên đã cho phép Đại Việt trả đũa các cuộc tấn công ven biển của người Chăm, đồng thời bắt giữ “năm nghìn tù nhân được tái định cư tại các làng nông nghiệp mới” ở vùng biên giới Đại Việt. Việc chiếm đoạt đất đai và lao động này đã giáng một đòn mạnh vào chính thể Champa vốn đã bất ổn. Thương mại là một động lực khác, vì việc kiểm soát bờ biển Champa đã giúp thương nhân Việt Nam tăng cường tiếp cận với ‘các mặt hàng xa xỉ’ từ vùng cao và các tuyến đường vận chuyển quốc tế.

Điểm mấu chốt của tư duy Trung-Việt là các nhà cai trị Champa, dù do sơ suất hay thiên vị, đã không thể kiểm soát đầy đủ nạn cướp biển và mất trật tự dọc bờ biển của họ. Ngược lại, các tài liệu cho thấy các quốc vương Đại Việt tự xưng là những nhà cai trị Nho giáo nguyên mẫu – những người bảo vệ “đạo đức” và “có giáo dục” mà “đức hạnh”, đế quốc của họ đòi hỏi sự thừa nhận từ các chính thể thấp kém như Champa. Vì vậy, các cuộc tấn công chống lại Champa được tự biện minh là nhằm thực thi sự thừa nhận đúng đắn về đức tính cao cả của Đại Việt.

Trong môi trường xung đột về văn hóa và kinh tế, Champa đã nỗ lực cân bằng sự phụ thuộc vào thương mại hàng hải với việc phát triển cơ sở nông nghiệp để hỗ trợ mạng lưới lỏng lẻo của giới thượng lưu ở thung lũng sông. Các tài liệu lưu ý rằng nó có cấu trúc của nền văn minh lúa nước xây dựng đền thờ giống với người Khmer, nhưng sự hội nhập chính trị và kinh tế có thể đạt được như các chính thể thống nhất hơn như Đại Việt và Angkor thì vẫn nằm ngoài tầm với của họ. Champa cuối cùng đã thiếu sự gắn kết nội bộ và nguồn lực để chống lại chủ nghĩa bành trướng của Việt Nam. Đến thế kỷ 15, việc sáp nhập Đại Việt đã biến Champa thành một vùng đất nhỏ chấm dứt xung đột hàng thế kỷ giữa các chính thể đối địch này.